Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhìn nhận, càng trong hoàn cảnh khó khăn, thử thách, vai trò của doanh nghiệp lớn càng được thể hiện rõ. Trong bài phỏng vấn với Đời sống và Pháp luật nhân ngày Doanh nhân Việt Nam (13/10), Bộ trưởng Bộ Kế Course. Kinh Tế Vĩ Mô. Listed books Introductory Microeconomics Mastering Dojo Principles of Macroeconomics Marketing-Management: Märkte, Marktinformationen und Marktbearbeit Baurecht / Bayern Bauordnungsrecht Bauleitplanung. Uploaded by han tran. Academic year 2021/2022. Trước là trò chuyện sau là nghỉ chân". (Ca dao) Xin nhắc tới một bài nhạc tổ của đờn ca tài tử Nam Kỳ,bài "Duyên kỳ ngộ". "Ngộ kỳ thời"là chàng trai nói về thời điểm cái duyên khi gặp gỡ cô gái. "Nam mô di bố phù" và "Nam mô di bố phạ"là gì? Nam mô là Là thành viên của Tổ chức UNESCO từ năm 1976, chính thức phê chuẩn tham gia Công ước 1972 từ ngày 19.10.1987, 35 năm qua, Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh gia là thành viên có trách nhiệm, uy tín, luôn thực hiện tốt các quy định của Công ước. Với nguồn tài nguyên văn Thứ ba, 30/08/2022 - 07:06 (Dân trí) - Nhiều lãnh đạo chủ chốt của xã Hồng Sơn (huyện Đô Lương, Nghệ An) đã bỏ nhiệm sở đi du lịch tại Phú Quốc trong ngày làm việc. Chiều 29/8, mặc dù đang trong giờ hành chính nhưng nhiều lãnh đạo, cán bộ xã Hồng Sơn, huyện Đô Lương, Nghệ An vắng mặt. Giao hàng miễn phí toàn Việt Nam. Chăm sóc khách hàng 24H mỗi ngày. 1900.6883 hoặc (028) 6688.8383. 0926.183.183 (TPHCM) - 0928.183.183 (HN) Chị Linh - Khách hàng mua Phật di lạc xanh ngọc tay LN192 và Chuỗi mã não khắc sen Phật S6843. Chị Nụ - Khách hàng mua Phật di lạc vàng cam ngồi 9jamub9. Noi Gương ịa Tạng Vương Bồ Tát ịa Tạng Vương Bồ Tát có nguyện lực lớn nhất. Ngài nói rằng “ịa ngục vị không, thệ bất thành Phật, Chúng sanh độ tận, phương chứng Bồ-đề.” Có nghĩa là địa ngục chưa trống không, tôi thề không thành Phật; chúng sanh độ hết rồi, tôi mới chứng bồ-đề. Tinh thần nầy thật là từ bi. Bồ-tát đối với chúng sanh chúng ta rất là quan tâm lo lắng vô cùng, không có gì hình dung được. Phàm đối với tín đồ Phật Giáo, nổ lực tu hành thì ịa Tạng Vương Bồ Tát có thể trong lúc chúng ta thiền định hoặc chiêm bao mà hiện thân thuyết pháp. Tiếc thay chúng ta không hiểu dụng tâm của Bồ-tát, và cô phụ lòng từ bi của Ngài, thật là có lỗi với Ngài. Song le Bồ-tát cũng không giận dỗi, Ngài tha thứ cho sự si mê của chúng sanh, rồi vẫn không ngừng phổ độ chúng sanh. Khi nào độ hết chúng sanh thì Ngài mới thành Phật. Những việc Bồ-tát làm đều hướng về sự chân thật. Tuyệt đối Ngài không có ý hư ngụy giả dối, dù nhỏ như một sợi tơ, thuần túy là để cứu độ chúng sanh được thoát khổ và an lạc. Hiện nay chúng ta đang cử hành ịa Tạng Thất, ai có chơn tâm thì người ấy sẽ có cảm ứng, ai có thành ý thì người đó sẽ có thọ dụng. Sự thọ dụng nầy không phải là đắc được thần thông diệu dụng, mà là tâm mình được thanh tịnh, hết vọng tưởng. Khi vọng tưởng hết thì mình sẽ có cảnh giới cảm ứng đạo giao hiện tiền. Có người nói “Bình an là cảm ứng; biết lỗi lầm cũng là cảm ứng; so với lúc xưa tôi hiểu biết rõ ràng hơn, đó cũng là cảm ứng; so với trước kia tôi siêng năng nổ lực hơn, đó cũng là cảm ứng.” Nói như vậy cũng không sai, chung chung là như vậy. Bắt Chước Tinh Thần Bồ Tát ịa Tạng Thế nào gọi là Bồ Tát ịa Tạng? Vị Bồ-tát này cũng như đại địa, chứa hết vạn vật. Hết thảy vạn vật do đất mà sanh ra, nương đất mà lớn lên. Bất kể chúng sanh hữu tình hay vô tình, không thể rời khỏi đại địa mà tồn tại được, từ đó mà suy ra con người chúng ta mỗi một lần thở ra, thở vào, một cử một động, một lời nói một hành động, từng giờ từng khắc, đều sinh hoạt ở trên pháp thân của Bồ Tát ịa Tạng, chẳng qua chính chúng ta không hay biết đó mà thôi. Như con kiến càng bò trên con thuyền, nó không biết tới con thuyền. Con thuyền trôi nổi trên biển, ghé khắp mọi nơi, nhưng con kiến càng đâu có biết thuyền là cái gì? Thuyền đi tới đâu? Hoàn toàn không biết gì cả. Lý do tại sao vậy? Bởi thuyền thì quá lớn, kiến thì quá nhỏ. Chúng ta sinh tồn trên pháp thân của Bồ Tát ịa Tạng cũng cùng một ý nghĩa như vậy. Chúng ta sống trên quả địa cầu, không nương vào một chỗ nào trong không gian cả. ịa cầu do phong luân nhiếp trì, theo quy luật tự nhiên mà vận hành bất tuyệt trong quỹ đạo. Trong hư không, địa cầu phiêu diêu xoay chuyển, rồi cuối cùng nó đi tới đâu? Sự hiểu biết của các nhà Thiên văn học bất quá chỉ là danh từ mà thôi, rốt cuộc như thế nào họ cũng chẳng biết. Chuyện huyền bí của trời đất chẳng ai hiểu rõ một cách chân chánh. Biết được thực sự bí mật của vũ trụ họa chăng chỉ có các bậc thánh nhân đã chứng quả. Chúng ta là kẻ phàm phu tục tử không thể hiểu hết, ý nghĩa của nó là chẳng thể nghĩ bàn. Chúng ta đều là hạng hồ đồ ăn uống tạp loạn. Chúng ta sinh ra đời, từ thiếu niên lên tráng niên, từ tráng niên đến tuổi già, từ tuổi già đến chết, đó là con đường mà người đời trải qua, không ai có thể thoát ra ngoài định luật này. Trong cuộc sống như vậy, có người thì gặp rất nhiều khổ nạn – nghiệp chướng nặng – lãnh tận cùng sự khổ đau, rồi từ đó nhận thấy thân tâm tính mạng tựa hư ảo, sanh ra những tư tưởng yếm thế, coi cuộc đời chẳng còn hứng thú gì nữa. Có người xuất thân trong gia đình giầu sang – nghiệp chướng nhẹ – các thứ ăn mặc nơi ở đều thuộc giới thượng lưu, đời sống đầy đủ, được toại lòng xứng ý. Như người ta thường nói “muốn gió có gió, muốn mưa có mưa,” thậm chí muốn cả mặt trăng, cha mẹ cũng chiều lòng tìm cách đưa trăng xuống cho con. ời sống như vậy, trông vào thì tuồng như rất vui sướng, rất mỹ mãn. Kỳ thực, chẳng phải như vậy, mà chính là một đời hồ đồ chẳng điều gì được minh bạch, có thể nói là “túy sinh mộng tử,” sống say chết mê. Không có được sự hiểu biết chân chánh, tỷ dụ như vì sao ta đến thế giới này? ến để làm gì? ến để ăn uống chăng? ể mặc áo quần chăng? Hoặc giả đến để lừa gạt người? ến để hưởng thụ? ó là những điều mà thế gian mê mờ, không ai có thể phá được sự chấp mê đó. Chẳng riêng gì số người tại gia không phá được cái cửa mê này, mà đối với giới xuất gia cũng còn bị hãm trong vòng mê hoặc. Danh không buông được, lợi không bỏ được, chỗ nào cũng chạy theo duyên, chỗ nào cũng vướng mắc, thật là đáng thương vô cùng. Những người xuất gia phải nên có ý nghĩ, tại sao ta xuất gia? Bởi vì ta đã coi nhẹ hết thảy mọi thứ trên thế gian này, chẳng chấp các pháp thế gian, do đó mới xuất gia tu đạo đặng giải quyết vấn đề sanh tử. Người xuất gia phải tha thiết với vấn đề sanh tử, phát tâm Bồ-đề, chớ không thể hồ đồ chờ chết, như người ta nói “Một ngày làm sư, một ngày đánh chuông.” Với một tâm lý đó xuất gia, đối với vấn đề sanh tử quả là không nắm vững được tí nào. Chúng ta vào thất ịa Tạng, nên học hỏi tinh thần cứu độ chúng sanh của Bồ Tát ịa Tạng. Trong thời quá khứ, Bồ-tát từng phát mười tám lời nguyện lớn, nguyện chúng sanh thoát ly biển khổ, tới bờ an lạc. Ngài nói rằng “ịa ngục chưa trống, nguyện chẳng thành Phật,” và “ộ hết chúng sanh, mới chứng Bồ-đề.” Ngài lại nói “Ta không vào địa ngục thì ai vào địa ngục.” Thật là những lời nguyện vĩ đại! Các vị phải nên bắt chước pháp của Bồ-tát, học hỏi tinh thần cứu người quên mình. Bồ Tát ịa Tạng nay vẫn còn trong địa ngục chịu khổ để thuyết pháp cho các chúng sanh. Chúng ta cùng ở trong pháp thân của Ngài ịa Tạng, lại cùng là người xuất gia, cùng với Ngài vốn là đồng chí đồng đạo trong việc quảng độ chúng sanh. “ặt mình trong chốn nước sôi lửa bỏng, cứu chúng sanh tới bờ mát mẻ” chính là bổn phận của người xuất gia. ược như vậy không uổng một đời xuất gia, hy vọng tất cả cố gắng! Người xuất gia không thể có tâm tham, phải quét trừ cho sạch tâm này, nếu không sẽ không đủ tư cách làm người xuất gia. Nếu còn tham cái này, tham cái kia, cái gì cũng tham, càng nhiều càng tốt, thậm chí vơ vào hết mọi thứ rác rưởi để tích trữ lại, như vậy quả là đáng thương đến cực điểm vậy! Niệm danh hiệu của Bồ Tát ịa Tạng thì chúng ta phải niệm cho thật rõ ràng, để Bồ-tát hiểu rõ tâm ý của chúng ta. Tại sao chúng ta niệm Bồ Tát ịa Tạng? Mục đích của chúng ta là khiến Bồ-tát sau khi nghe tiếng chúng ta niệm, Ngài biết rõ ý muốn của chúng ta để phát tâm từ bi, cho chúng ta được thỏa mãn tâm ý. Năm nay chính là năm đầu của thời kỳ “Cửu tinh liên châu,” tượng trưng cho sự hung hiểm. Chúng ta không cần biết có hung hiểm hay không hung hiểm, chỉ biết là chúng ta một tâm kiền thành niệm “Nam-mô ịa Tạng Vương Bồ-tát,” nguyện cầu tai họa lớn của thế giới đổi thành tai họa nhỏ, nếu là tai họa nhỏ thì biến thành tiêu tan. Bởi vậy chúng ta chỉ một lòng khẩn thiết, vì toàn thể nhân loại trên thế giới nguyện cầu hòa bình, hạnh phúc, đó chính là mục đích chúng ta vào thất ịa Tạng. ây chính là quảng đại tâm, vô lượng tâm mà kẻ xuất gia ai cũng phải ghi tạc trong lòng, coi chúng sanh như người thân của mình, giống như câu người ta nói “Người chết đuối, ta chết đuối, người đói ta đói,” phải phát tâm Bồ-tát, tự lợi lợi tha,tự giác giác tha, tự độ độ tha. Bởi vậy trong thời gian vào thất của pháp hội Bồ Tát ịa Tạng, chúng ta thành tâm chừng nào thì sẽ tốt chừng ấy, chúng ta đem hết thành tâm ấy niệm “Nam mô ịa Tạng Vương Bồ-tát.” Miệng chúng ta hết sức thành kính niệm Bồ Tát ịa Tạng, vậy là bánh xe của sáu nẻo luân hồi ngừng xoay. Không biết bao nhiêu là chúng sanh nhờ cơ hội này mà có thể ra khỏi cảnh luân hồi thoát ly khổ ách. Có thể nói rằng niệm danh hiệu Bồ Tát ịa Tạng là một công việc thần diệu, một công đức chẳng thể nghĩ bàn, do đó chúng ta không nên niệm trong sự mưu đồ, trong sự đặt giá, không phải vì sự trả ơn của chúng sanh mà niệm, tóm lại chúng ta niệm vì lòng tình nguyện. Bởi các lý do trên đạo tràng của chúng ta đột nhiên cử hành thất ịa Tạng, chẳng báo trước gì, cũng không tuyên bố gì. Trong số trú tại Vạn Phật Thánh Thành mà cũng có người không hay biết. Cái đó chính vì cơ duyên, cơ duyên hội đủ nên mới cử hành thất ịa Tạng. Thất ịa Tạng kết thúc thì tiếp theo là thất Quán Âm ngày 19 tháng 2 âm lịch, để cầu cho hòa bình thế giới, xin tất cả mọi người cố gắng đến niệm “Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát.” Có câu “chúng chí thành thành,” tức là góp ý chí – của số đông – sẽ tạo thành thành trì, tất cả cùng một lòng niệm, gắng sức niệm, hết sức thực tâm niệm, tức có cảm ứng, như câu “cảm ứng đạo giao” vậy. Cử hành thất ịa Tạng hay Quán Âm, chúng ta chỉ cần không có lòng riêng tư, tự lợi, không tranh, không tham, không cầu, mà thực sự chỉ vì hạnh phúc của chúng sanh trên thế giới. Tại Vạn Phật Bảo iện của Vạn Phật Thánh Thành, từ ngày 7 đến ngày 12 tháng 3 năm 1982 Ca DaoTàng kinh các 2022-01-08T020742-0500Nam Mô Di Bố Phù là gì?Đọc khoἀng 2 phύtMột anh hὀi ,nghe trong bài “Ra giêng anh cưới em” cό những câu“Ngộ kỳ thời, con kiến mới leo dây Nam mô di bố phὺ Hữu duyên mà thiên lу́ ngộ Nam mô di bố phὺ Gặp mặt nhau đây. chốn nầy hὸ hẹn thὐy chung sắt son. Nam mô di bố phᾳ”“Nam mô di bố phὺ” và “Nam mô di bố phᾳ”là gὶ?Đây là một lời giao duyên cὐa đôi trai gάi Nam Kỳ luc tỉnh xưaChàng và nàng gặp nhau rất là tὶnh cờ rồi nhớ nhau,đίnh ước nhau ra giêng sẽ cưới“Ngộ kỳ thời” là gὶ?Kỳ ngộ 奇遇 là gặp gỡ đặc biệtThời 時là lύc,thời gianThư tịch xưa cό “Duyên kỳ ngộ” là nό đây“Thiên duyên kỳ ngộ gặp chàng Khάc nào như thể phượng hoàng gặp nhau Tiện đây ᾰn một miếng trầu Hὀi thᾰm quê quάn ở đâu chᾰng là? Xin anh quά bước lᾳi nhà Trước là trὸ chuyện sau là nghỉ chân” Ca daoXin nhắc tới một bài nhᾳc tổ cὐa đờn ca tài tử Nam Kỳ,bài “Duyên kỳ ngộ”“Ngộ kỳ thời”là chàng trai nόi về thời điểm cάi duyên khi gặp gỡ cô gάi“Nam mô di bố phὺ” và “Nam mô di bố phᾳ”là gὶ?Nam mô là một câu “nguyện cầu” trong Phật giάoDi cό 72 chữ -nghῖa khάc nhau ,chữ di ở đây cό nghῖa 彌 là tràn đầyBố 布là ban ra, cho khắp,Phật cό chữ “bố thί” 布施 cho khắp, cho hếtPhὺ 扶 là giύp hộ hay phὸ hộ độ trὶ là một thuật ngữ trong Phật“Nam mô di bố phὺ” và “Nam mô di bố phᾳ”như nhau,phὺ hay phᾳ là xuống âm theo nhᾳcNguyên câu này là anh chàng “cua” được gάi tâm đầu у́ hợp,thành ra ἀnh cἀm tᾳ trời đất ,cầu xin được đem đến phύc lành cho hai người thưng nhau“Nam mô di bố phὺ” là một câu Nho học,theo phάi Nho gia cὐa câu “Nam Mô A Di Đà Phật”南 無 阿 彌 陀 佛Nam Mô A Di Đà Phật là câu niệm trong tiếng Phᾳn नमो अमित बुद्ध Namo Amitàbha BuddhaÝ nghῖa cὐa 6 chữ Nam Mô A Di Đà Phậtlà nghiêng mὶnh thành kίnh đem thân tâm qui ngưỡng Đức Phật A Di ĐàA Di Đà là một phάi Phật cό sau khi Phật Thίch Ca qua đời ,nό xuất hiện khoἀng đầu công ngưỡng Amitābha được phάt triển cὺng với thời kỳ đầu cὐa Phật giάo Đᾳi Thừa khi truyền giάo vào Trung Hoa nên thông dụng ở bên Đᾳi Thừa. Chỉ vậy thôi. 0630 08/02/2016 “Bác Hồ là Bồ Tát, là vị La hán, bởi vì Người đã dành tất cả cho mọi người, không giữ gì riêng cho mình cả. Cuộc đời và sự nghiệp của Bác Hồ như đóa sen giữa rừng hoa dân tộc Việt Nam, hội tụ đức tài của đất nước”. Báo Nhân Dân ngày 22-1-1997 Mưa sầm sập suốt ngày. Mây sũng nước. Đất trời cứ như bị cái chăn ẩm trùm lên. Một ngày ở với Thượng tọa mà tôi phát hãi bởi sức làm việc của ông. Sáng, ông dậy từ 4h để thiền và trì chú. 6h30’ ăn sáng bằng bánh mì với ly cà phê pha lẫn bột sâm Ngọc Linh, rồi đi làm việc ở khu trồng phong lan, hay khu trồng sâm hoặc khu cấy mô sâm… Trưa ăn chút cơm chay, rồi lại đi làm cho tới tối mịt. Ăn bữa tối xong, lại ngồi viết sách… Với Thượng tọa, mỗi ngày chỉ ngủ khoảng 4, 5 giờ. Bác Hồ đi khất thực khi hoạt động ở Thái Lan Ở tuổi gần 80, vậy mà Thượng tọa vẫn đi lại nhanh thoăn thoắt, tiếng nói sang sảng và tư duy thì vẫn cực kỳ mẫn tiệp, sắc sảo. Nhìn Thượng tọa làm việc, không ai có thể nghĩ rằng ông từng bị ung thư dạ dày và các giáo sư, bác sĩ của bệnh viện như Chợ Rẫy, Việt – Đức, Bạch Mai… đều chẩn đoán giống nhau và khuyên ông nên mổ cắt khối u, với hy vọng sống thêm… 6 tháng. Vậy là Thượng tọa về giam mình trong mật thất, tự dùng Yoga tiêu diệt khối u. Sau 12 ngày ở trong mật thất, không ăn uống, dùng nội lực của Yoga, thầy đã chiến thắng. Khối u biến mất và từ năm 2012 thầy không còn thấy triệu chứng gì về căn bệnh này nữa. Việc Thượng tọa Thích Huệ Đăng tìm ra phương pháp Kriya Yoga Hợp nhất với đấng Vô Cùng do sự trung gian của một nghi thức hay hành động, được giới Yoga Ấn Độ đánh giá rất cao và sau khi khảo sát, chứng nghiệm phương pháp của Thượng tọa, Trung tâm Sivanada Yoga Vedante Quốc tế thuộc Học viện Yoga Vedante Forest đã cấp bằng cho ông với tước hiệu là “Bậc thầy Yoga”. Chuyện Thượng tọa luyện Yoga, tìm ra phương pháp “thở bằng xương sống”, vốn bị thất truyền từ gần năm, chúng tôi sẽ đề cập đến trong một phóng sự khác. Thượng tọa Thích Huệ Đăng là một nhà tu hành rất nổi tiếng ở Việt Nam. Ông nổi tiếng đến mức, nhiều người còn cho rằng, ông cũng là một vị Bồ Tát tái sinh. Thôi thì, chuyện trong Phật giáo có kiếp trước, kiếp sau cũng chẳng biết thế nào, nhưng quả thật, khi nói chuyện với Thượng tọa và tận mắt nhìn những gì ông đang làm, những chồng sách ông viết ra mới thấy rằng người bình thường khó có thể làm như vậy. Ở Việt Nam, có lẽ chưa có một vị Thượng tọa nào lại có thể giảng giải 21 bộ Kinh Phật mà không cần sổ sách, giấy tờ. Và sau này người ta cứ mang băng ghi âm mà Thượng tọa đã giảng, gỡ ra rồi in thành sách. Cũng chưa có một Thượng tọa nào kiên quyết không nhận sự cúng dường của thí chủ, mà tự mình làm ra của cải vật chất, để vừa nuôi mình vừa đóng góp cho xã hội. Thượng tọa Thích Huệ Đăng Cũng chưa có một Thượng tọa nào lại là một nhà khoa học và được cấp bằng sáng chế về cấy mô sâm Ngọc Linh và hoa phong lan. Và công trình cấy mô sâm Ngọc linh của ông đang được đề nghị xét Giải thưởng Hồ Chí Minh. Xem ra, Thượng tọa Thích Huệ Đăng đang đi một mình trên con đường chân lý của Đức Thích Ca Mâu Ni để lại, đó là người tu hành cũng phải tạo ra của cải vật chất để giúp mình và giúp người. Thượng tọa phản đối một cách quyết liệt về tình trạng bây giờ người ta biến Phật giáo thành một thứ tôn giáo mê tín dị đoan, suốt ngày “cốc cốc cheng cheng”, cầu xin Phật cho từ sự bình an đến sức khỏe, rồi thăng quan tiến chức, phát tài phát lộc và khấn vái theo kiểu “Buôn một bán mười, đi tươi về tốt…”. Tôi để ý thấy ở đầu giường của Thượng tọa có bức ảnh một nhà sư mặc áo vàng, nét mặt trang nghiêm, đang cầm bát đi khất thực. Nhìn bức ảnh này, tôi ngờ ngợ vì thấy quen quen. Tôi hỏi Thượng tọa, người này là ai? Thượng tọa nói luôn “Đó là Đại Bồ Tát Hồ Chí Minh”. Tôi ngạc nhiên vô cùng và nhớ ra trong sử sách, thời gian hoạt động ở Thái Lan, Chủ tịch Hồ Chí Minh lấy bí danh là Thầu Chín và đã từng đi tu. Rồi Thượng tọa Thích Huệ Đăng nói với tôi rằng “Ngài là Đại Bồ Tát Hồ Chí Minh. Hằng ngày tôi vẫn hai lần nói chuyện với Ngài. Buổi sáng trước khi đi làm, tôi trình bày với ngài rằng, hôm nay tôi phải làm việc gì và nếu có khó khăn tôi cũng sẽ trình bày với Ngài – Buổi tối trước khi đi ngủ, tôi cũng lại báo cáo với Ngài ngày hôm nay tôi đã làm được những việc gì. Và đã hàng chục năm nay, nếu như đi xa thì thôi, còn nếu ở nhà, không bao giờ tôi bỏ việc nói chuyện với Ngài như vậy”. Bác Hồ ngồi thiền trong hang đá ảnh tư liệu của Nhà văn Sơn Tùng Nghe Thượng tọa nói tôi rất ngạc nhiên, dường như nhận thấy điều này ở tôi, Thượng tọa bảo rằng “Các anh chưa nghiên cứu Phật pháp hoặc cũng có thể anh chưa tìm hiểu tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về Phật pháp và con đường đi cứu dân, cứu nước, giành độc lập cho dân tộc của Người. Con đường của Người cũng là đi theo chân lý của Đức Phật. Người là một vị Đại Bồ Tát tái sinh, đã nhập thế, từ bỏ mọi vinh hoa phú quý, từ bỏ cuộc sống đang yên bình để dấn thân vào con đường mịt mù chông gai, gian khổ, từ đó tìm ra con đường giành độc lập cho dân tộc. Điều này giống Phật Thích Ca Mâu Ni từ bỏ cung vàng điện ngọc, ngai vàng, vợ đẹp con ngoan, đi tu hành tìm ra chân lý cứu độ chúng sinh. Đã có nhiều người cho rằng, Ngài mang bát đi khất thực ở Thái Lan đó là cách che mắt mật thám, thật ra không phải như vậy. Đi khất thực ngoài ý nghĩa nhận sự cúng dường của chúng sinh còn là một hình thức tu thiền, đi để cảm nhận được cuộc sống vất vả lầm than, đi để mà suy ngẫm về số phận của chúng sinh. Nhà sư đi khất thực chỉ được đi theo một con đường luôn hướng về phía trước và không được quay ngược trở lại, đây chính là ý nghĩa đích thực của việc đi khất thực. Cũng như Chủ tịch Hồ Chí Minh khi đã lên tàu bôn ba năm châu bốn biển tìm đường cứu nước, đã đi sẽ không quay trở lại, mà chỉ về khi đã tìm ra chân lý”. Rồi Thượng tọa cho tôi xem những tập bài giảng, bài nói chuyện và tham luận của ông về tư tưởng Phật giáo của Hồ Chí Minh, Trần Nhân Tông và của Phật Thích Ca Mâu Ni, Thượng tọa luôn giữ quan điểm rằng, giữa 3 người này có một nét chung đó là tìm đường cứu dân, cứu nước bằng chân lý Phật pháp. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta thấy có nhiều nét tương đồng với các tư tưởng lớn của Phật giáo. Đó là 1- Tư tưởng hy sinh cho nhân loại và chúng sinh; 2- Tư tưởng vì con người, lo cho con người; 3- Tư tưởng sống thanh bạch, giản dị, tránh xa hoa lãng phí; 4- Tư tưởng chống chủ nghĩa cá nhân, chống thói hư tật xấu tha hóa về đạo đức; Chủ tịch Hồ Chí Minh là người suốt đời cống hiến cho nhân dân Việt Nam. Người bộc bạch “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Người thấm nhuần sâu sắc tư tưởng từ bi hỉ xả của Phật giáo. Khi nhìn thấy một tù binh Pháp bị thương đang run lên vì gió rét, Người đã không ngần ngại cởi ngay tấm áo đang mặc khoác lên người tù binh trước con mắt ngạc nhiên và cảm phục đến thẫn thờ của hàng nghìn tù binh Pháp trong trận Điện Biên Phủ. Trên bình diện tư tưởng, Chủ tịch Hồ Chí Minh có nhiều mặt gần gũi, gặp gỡ với giáo lý Phật giáo. Cốt tủy của Phật giáo là Từ bi hỉ xả, Vô ngã vị tha, Cứu khổ cứu nạn. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết “Tôn chỉ mục đích của đạo Phật nhằm xây dựng cuộc đời thuần mỹ, chí thiện, bình đẳng, yên vui và no ấm”. Hồ Chí Minh khẳng định, đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, là điều kiện tiên quyết bảo đảm thành công của cách mạng. “Dân” là chỉ mọi người con đất Việt, đều là con Rồng cháu Tiên, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, già hay trẻ.. “Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phụng sự nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. Người khuyên “Dân ta xin nhớ chữ đồng Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh” và khẳng định “Đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc”. Theo Người, muốn đoàn kết thì phải biết “Cầu đồng tồn dị” Lấy cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt; kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc; phải khoan dung, độ lượng với con người; phải chống khuynh hướng “Cô độc, hẹp hòi; đoàn kết vô nguyên tắc”. Người nhấn mạnh, lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; là tự do, dân chủ, bình đẳng; đó chính là ngọn cờ đoàn kết, là nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng Việt Nam. Chính nguyên tắc đó đã thu hút, tập hợp các tầng lớp nhân dân thành một khối dưới sự lãnh đạo của Đảng, tạo nên sức mạnh vĩ đại chiến thắng 2 đế quốc Pháp, Mỹ. Theo Hồ Chí Minh, đồng bào lương hay giáo đều là người Việt Nam, cách mạng là sự nghiệp chung không phải chỉ của một, hai người. Người kêu gọi “Lương giáo đoàn kết, toàn dân đoàn kết, cả nước một lòng, nhân dân ta nhất định sẽ thắng lợi trong công cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình, thống nhất Tổ quốc và xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh”. Phật hoàng Trần Nhân Tông – vị sư tổ của Phái Trúc Lâm là một ông vua đã từng chỉ huy quân dân Đại Việt hai lần đánh thắng quân Nguyên, ông đã vận dụng tư tưởng Phật giáo vào lãnh đạo nhân dân, đoàn kết một lòng chống giặc ngoại xâm, ông đã dẹp đi những mối thù những xích mích trong hoàng tộc, để đoàn kết trên dưới một lòng tạo ra sức mạnh thống nhất toàn dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vậy. Câu nói của Người “Đoàn kết, đoàn kết đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” chính là thể hiện một cách cụ thể nhất tư tưởng của Phật giáo. Con đường của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như của Phật hoàng Trần Nhân Tông rất giống nhau. Chính vì thế mà mong ước của Thượng tọa Thích Huệ Đăng là làm sao xây dựng được một hệ tư tưởng Phật giáo Việt Nam dựa trên ba tư tưởng cốt lõi là Chân lý Phật giáo của Thích Ca Mâu Ni – Chân lý Phật giáo của Phái Trúc Lâm và Tư tưởng Hồ Chí Minh. Còn nếu cứ để Phật giáo phát triển pha tạp như hiện nay, không có bản sắc Việt, chẳng giống Ấn Độ, chẳng ra Đài Loan, Trung Quốc… và biến Phật thành một lực lượng siêu nhiên, bởi chính những nhà tu hành đã làm như vậy để kiếm tiền thì đó không phải là con đường của Phật giáo. Nguyễn Như Số Xuân 2016 Trong bài hát Ra Giêng Anh Cưới Em của nhạc sĩ Lư Nhất Vũ, từng được Mạnh Đình và Như Quỳnh trình bày thành công, có đoạn như sau “Ngộ kỳ thời, con kiến mới leo dây Nam mô di bố phù Hữu duyên mà thiên lý ngộ Nam mô di bố phù Gặp mặt nhau đây, chốn nầy hò hẹn thủy chung sắt son. Nam mô di bố phạ” Nghe bài hát Ra Giêng Anh Cưới Em “Nam mô di bố phù” và “Nam mô di bố phạ” là gì? Đây là một lời giao duyên của đôi trai gái Nam Kỳ luc tỉnh xưa. Chàng và nàng gặp nhau rất là tình cờ rồi nhớ nhau, đính ước nhau ra giêng sẽ cưới. “Ngộ kỳ thời” là gì? Kỳ ngộ 奇遇 là gặp gỡ đặc biệt. Thời 時 là lúc, thời gian. Thư tịch xưa có “Duyên kỳ ngộ” là nó đây. “Thiên duyên kỳ ngộ gặp chàng Khác nào như thể phượng hoàng gặp nhau Tiện đây ăn một miếng trầu Hỏi thăm quê quán ở đâu chăng là? Xin anh quá bước lại nhà Trước là trò chuyện sau là nghỉ chân” Ca dao “Ngộ kỳ thời” là chàng trai nói về thời điểm cái duyên khi gặp gỡ cô gái. “Nam mô di bố phù” và “Nam mô di bố phạ”là gì? “Nam mô” là một câu “nguyện cầu” trong Phật giáo Di có 72 chữ – nghĩa khác nhau, chữ “di” ở đây có nghĩa là “tràn đầy” Bố 布 là ban ra, cho khắp, Phật có chữ “bố thí”, là cho khắp, cho hết. Phù 扶 là giúp đỡ. Phù hộ hay phò hộ độ trì là một thuật ngữ trong Phật. “Nam mô di bố phù” và “Nam mô di bố phạ” như nhau, “phù” hay “phạ” là xuống âm theo nhạc. Nguyên câu này là anh chàng “cua” được gái tâm đầu ý hợp, thành ra ảnh cảm tạ trời đất, cầu xin được đem đến phúc lành cho hai người thương nhau. Nguồn Saigon trong tim tôi

nam mo di bo phu